Các Mô Hình Cơ Bản
Phân tích kĩ thuật có thể rất đơn giản hoặc rất phức tạp, phụ thuộc vào khả năng bạn thao tác với dữ liệu thị trường. Những công cụ “thô sơ” bao gồm các mô hình biểu đồ, như tam giác, 2 đỉnh – 2 đáy , đầu và vai, mô hình cờ, và tất nhiên, cơ bản nhất nhưng quan trọng nhất, là đường xu hướng. Đôi khi bạn không cần những máy tính và phần mềm quá rườm rà cho dù đôi khi chúng có thể giúp bạn phân tích nhanh và dễ dàng hơn.
Các mô hình tiếp diễn
Xu hướng thị trường có khuynh hướng tiếp tục duy trì. Khi nào biến động giá còn tuân theo 1 xu hướng xác định và không phá vỡ đường xu hướng đó, thì xu hướng đó vẫn còn sức mạnh và là 1 xu hướng tiếp diễn. Ngoài ra còn có 1 số mô hình biến động giá cũng cho thấy xu hướng vẫn còn tiếp tục.
Mô hình cờ tăng ( bullish flag) –
Mô hình cờ tăng xuất hiện khi thị trường đang có 1 xu hướng tăng mạnh, và có thể bị gián đoạn bởi 1 sự tạm nghỉ hoặc biến động ít ( sideways) do việc giao dịch giảm trong 1 vài nến ( candles), và sau đó thị trường tiếp tục 1 xu hướng mạnh tiếp diễn. Khoảng gián đoạn chống lại xu hướng chính có thể diễn ra trong vài ngày.
Thị trường có đặc thù là luôn dao động giữa 1 chu kì các điểm dao động cao và chu kì các điểm dao động thấp, và đó là lý do tại sao mô hình cờ là 1 dạng thị trường chậm lại 1 nhịp để xác định lại mức trước khi quay trở lại xu hướng tăng.
Xu hướng thị trường có khuynh hướng tiếp tục duy trì. Khi nào biến động giá còn tuân theo 1 xu hướng xác định và không phá vỡ đường xu hướng đó, thì xu hướng đó vẫn còn sức mạnh và là 1 xu hướng tiếp diễn. Ngoài ra còn có 1 số mô hình biến động giá cũng cho thấy xu hướng vẫn còn tiếp tục.
Mô hình cờ tăng ( bullish flag) –
Mô hình cờ tăng xuất hiện khi thị trường đang có 1 xu hướng tăng mạnh, và có thể bị gián đoạn bởi 1 sự tạm nghỉ hoặc biến động ít ( sideways) do việc giao dịch giảm trong 1 vài nến ( candles), và sau đó thị trường tiếp tục 1 xu hướng mạnh tiếp diễn. Khoảng gián đoạn chống lại xu hướng chính có thể diễn ra trong vài ngày.
Thị trường có đặc thù là luôn dao động giữa 1 chu kì các điểm dao động cao và chu kì các điểm dao động thấp, và đó là lý do tại sao mô hình cờ là 1 dạng thị trường chậm lại 1 nhịp để xác định lại mức trước khi quay trở lại xu hướng tăng.
Mô hình cờ giảm (Bearish flag)
Mô hình cờ giảm xuất hiện khi thị trường đang có 1 xu hướng giảm mạnh, và có thể bị gián đoạn bởi 1 sự tạm nghỉ hoặc biến động ít ( sideways) do việc giao dịch giảm trong 1 vài nến ( candles), và sau đó thị trường tiếp tục 1 xu hướng giảm mạnh tiếp diễn. Cũng như mô hình cờ tăng, vùng “cờ” là thời gian ngắn thị trường củng cố và xác định trước khi trở lại với 1 xu hướng giảm mạnh.
Mô hình cờ giảm xuất hiện khi thị trường đang có 1 xu hướng giảm mạnh, và có thể bị gián đoạn bởi 1 sự tạm nghỉ hoặc biến động ít ( sideways) do việc giao dịch giảm trong 1 vài nến ( candles), và sau đó thị trường tiếp tục 1 xu hướng giảm mạnh tiếp diễn. Cũng như mô hình cờ tăng, vùng “cờ” là thời gian ngắn thị trường củng cố và xác định trước khi trở lại với 1 xu hướng giảm mạnh.
Tam giác đối xứng hay cờ hiệu (pennants)– 1 trong những mô hình tam giác phổ biến – tam giác nhọn là mô hình tiếp diễn. Giá có khuynh hướng dao động ngày càng yếu , với điểm cao và điểm thấp ngày càng có biên độ nhỏ dần và giá hướng đển đỉnh nhọn của tam giác. Sự phá vỡ của giá ra khỏi mô hình tam giác theo 1 hướng thì xu hướng đó sẽ nổi trội hơn – và trong ví dụ phía trên , giá xuống mạnh.
Tam giác giảm (descending triangle) – 1 trong những mô hình tam giác hiệu quả báo trước sự tiếp diễn của xu hướng giảm . Thị trường đang nóng lòng tìm kiếm 1 xu hướng mua khi đã chạm mức cản (support) rất nhiều lần trong vài candle liên tiếp. nhưng đỉnh của các nên trong dãy ngày càng thấp hơn và giá hướng đến điểm mũi nhọn trong tam giác. Và cũng như các mô hình tam giác khác, khi người mua quyết định rằng họ không thể giữ giá lâu hơn nữa tại mức chặn đáy của tam giác này, giá sẽ phá vỡ mức cản, và kì vọng giá sẽ tiếp tục xuống theo xu hướng trội hơn.
Tam giác tăng (Ascending triangle ) – Tam giác tăng ngược lại với tam giác giảm. Người bán giữ giá tại mức chặn trên (resistance) của tam giác nhưng người mua tiếp tục đẩy giá lên cao hơn, tạo nên mức giá thấp của nến sau cao hơn nến trước cho đến khi mức chặn trên bị phá vỡ. Cũng giống như các tam giác khác, giá sẽ tiếp diễn theo xu hướng trội hơn sau khi phá vỡ mức cản.
Chiếc tách và tay cầm ( cup and handle or cup and saucer) : Thị trường giảm đột ngột , sau đó giao dịch với mức độ thấp trong 1 thời gian ngắn, và sau đó tăng đột ngột tạo thành 1 hình chữ U dạng cái tách. Sau đó giá tiếp tục đánh võng tạo thành cái tay cầm phía bên phải cái tách, chạm mức cản trên (resistance) 1 vài lần. Khi giá đã đủ xung lực để phá vỡ mức cản , nó sẽ tiếp tục bứt phá mạnh tạo mức cao hơn với khối lượng lớn, và đôi khi có thể tạo ra 1 khoảng trống (gap) tại điểm bứt phá để xác định 1 xu hướng tăng mạnh.
Tam giác giảm (descending triangle) – 1 trong những mô hình tam giác hiệu quả báo trước sự tiếp diễn của xu hướng giảm . Thị trường đang nóng lòng tìm kiếm 1 xu hướng mua khi đã chạm mức cản (support) rất nhiều lần trong vài candle liên tiếp. nhưng đỉnh của các nên trong dãy ngày càng thấp hơn và giá hướng đến điểm mũi nhọn trong tam giác. Và cũng như các mô hình tam giác khác, khi người mua quyết định rằng họ không thể giữ giá lâu hơn nữa tại mức chặn đáy của tam giác này, giá sẽ phá vỡ mức cản, và kì vọng giá sẽ tiếp tục xuống theo xu hướng trội hơn.
Tam giác tăng (Ascending triangle ) – Tam giác tăng ngược lại với tam giác giảm. Người bán giữ giá tại mức chặn trên (resistance) của tam giác nhưng người mua tiếp tục đẩy giá lên cao hơn, tạo nên mức giá thấp của nến sau cao hơn nến trước cho đến khi mức chặn trên bị phá vỡ. Cũng giống như các tam giác khác, giá sẽ tiếp diễn theo xu hướng trội hơn sau khi phá vỡ mức cản.
Chiếc tách và tay cầm ( cup and handle or cup and saucer) : Thị trường giảm đột ngột , sau đó giao dịch với mức độ thấp trong 1 thời gian ngắn, và sau đó tăng đột ngột tạo thành 1 hình chữ U dạng cái tách. Sau đó giá tiếp tục đánh võng tạo thành cái tay cầm phía bên phải cái tách, chạm mức cản trên (resistance) 1 vài lần. Khi giá đã đủ xung lực để phá vỡ mức cản , nó sẽ tiếp tục bứt phá mạnh tạo mức cao hơn với khối lượng lớn, và đôi khi có thể tạo ra 1 khoảng trống (gap) tại điểm bứt phá để xác định 1 xu hướng tăng mạnh.
Các Mô Hình Đảo Chiều
Như cái tên của nó, đây là những mô hình đổi chiều cho thấy dấu hiệu xu hướng đã kết thúc và thị trường đã sẵn sàng đổi sang 1 xu hướng khác ngược với hướng ban đầu, hoặc có thể, dao động ngắn ( sideways) trong 1 thời gian.
Cùng với mô hình tiếp diễn, đường xu hướng (trendline) là mô hình cơ bản để xem xét. Nếu giá phá vỡ đường xu hướng, và tiếp tục bứt phá, đây là sự xác nhận của 1 sự đổi chiều xu hướng. Luôn nhớ rằng, tất cả các mô hình đều có thể áp dụng cho mọi khung thời gian (time frames) – theo giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc có thể theo biểu đồ phút.
Mô hình 2 đỉnh – (double tops):
Hiện tượng này xuất hiện khi giá đạt đến một điểm cao rõ rệt, vượt hẳn điểm trước đây, sau đó quay lại điểm đó và lại vượt lên. Khi thời gian 2 đỉnh liên tiếp của sự tăng giá này cách nhau càng lâu thì càng thể hiện khả năng tăng giá của đồ thị này. Sự biến đổi của mô hình này tương tự như hiện tượng mà người ta gọi là mô hình các đỉnh “M” hay 1-2-3 đợt sóng tăng giá. Tuy nhiên, sự tăng giá thứ 2 thường thấp hơn sự tăng giá đầu tiên đối với mô hình này. Trong hầu hết các trường hợp, những điểm quyết định thường là những điểm tăng giá, đó là những điểm đánh dấu khả năng xuất hiện một mức giá trần mong đợi, và một mức giá thấp tạm thời. Nếu giá giảm xuống thấp hơn mức đó, đó là sự xác nhận đỉnh mô hình và dấu hiệu khuyên bạn nên bán.
Cùng với mô hình tiếp diễn, đường xu hướng (trendline) là mô hình cơ bản để xem xét. Nếu giá phá vỡ đường xu hướng, và tiếp tục bứt phá, đây là sự xác nhận của 1 sự đổi chiều xu hướng. Luôn nhớ rằng, tất cả các mô hình đều có thể áp dụng cho mọi khung thời gian (time frames) – theo giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc có thể theo biểu đồ phút.
Mô hình 2 đỉnh – (double tops):
Hiện tượng này xuất hiện khi giá đạt đến một điểm cao rõ rệt, vượt hẳn điểm trước đây, sau đó quay lại điểm đó và lại vượt lên. Khi thời gian 2 đỉnh liên tiếp của sự tăng giá này cách nhau càng lâu thì càng thể hiện khả năng tăng giá của đồ thị này. Sự biến đổi của mô hình này tương tự như hiện tượng mà người ta gọi là mô hình các đỉnh “M” hay 1-2-3 đợt sóng tăng giá. Tuy nhiên, sự tăng giá thứ 2 thường thấp hơn sự tăng giá đầu tiên đối với mô hình này. Trong hầu hết các trường hợp, những điểm quyết định thường là những điểm tăng giá, đó là những điểm đánh dấu khả năng xuất hiện một mức giá trần mong đợi, và một mức giá thấp tạm thời. Nếu giá giảm xuống thấp hơn mức đó, đó là sự xác nhận đỉnh mô hình và dấu hiệu khuyên bạn nên bán.
Mô hình 2 đáy (double bottom) :
Nguyên tắc của mô hình này giống như sự ngược lại của mô hình 2 đỉnh. Tương tự mô hình này được gọi là mô hình các đáy “W” hoặc 1-2-3 đợt sóng giảm giá. Trong tất cả các trường hợp của mô hình này, giá đạt đến một mức thấp rõ rệt, có sự bật lên 1 chút, sau đó rớt xuống mức thấp để thử lại 1 lần nữa, và cuối cùng tăng trở lại. Khi giá vượt khỏi mức cao tạm thời, khi đó đáy mô hình được xác nhận và thị trường nên bán.
Nguyên tắc của mô hình này giống như sự ngược lại của mô hình 2 đỉnh. Tương tự mô hình này được gọi là mô hình các đáy “W” hoặc 1-2-3 đợt sóng giảm giá. Trong tất cả các trường hợp của mô hình này, giá đạt đến một mức thấp rõ rệt, có sự bật lên 1 chút, sau đó rớt xuống mức thấp để thử lại 1 lần nữa, và cuối cùng tăng trở lại. Khi giá vượt khỏi mức cao tạm thời, khi đó đáy mô hình được xác nhận và thị trường nên bán.
Mô hình đảo ngược các đỉnh “đầu và vai” (Head-and-shoulders top reversal) :
Mô hình đảo ngược khuynh hướng truyền thống này xuất hiện khi thị trường tạo ra một điểm cao mới (left shoulder), giảm xuống, tăng lên đến đỉnh mới cao hơn (head) và giảm trở lại, sau đó tăng tới 1 đỉnh cao mới sau 1 thời gian có thể là bằng với đỉnh bên trái (left shoulder) và sau đó thì giảm trở lại. Điểm mấu chốt ở đây là “1 đường tiệm cận” – “neckline” hoặc là 1 đường nằm ngang mà có thể nối 2 điểm thấp trên đồ thị.
Mô hình đảo ngược khuynh hướng truyền thống này xuất hiện khi thị trường tạo ra một điểm cao mới (left shoulder), giảm xuống, tăng lên đến đỉnh mới cao hơn (head) và giảm trở lại, sau đó tăng tới 1 đỉnh cao mới sau 1 thời gian có thể là bằng với đỉnh bên trái (left shoulder) và sau đó thì giảm trở lại. Điểm mấu chốt ở đây là “1 đường tiệm cận” – “neckline” hoặc là 1 đường nằm ngang mà có thể nối 2 điểm thấp trên đồ thị.
Khi giá rớt xuống thấp hơn “neckline”, đó là dấu hiệu kết thúc sự tăng giá và có khả năng bắt đầu 1 đợt giảm giá của thị trường. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp giá có khuynh hướng đi ngược với xu hướng thị trường vì vậy sự dừng lại chưa tạo ra một xu hướng giảm giá ngay. Đôi khi điểm dừng lại của đường tiệm cận xuất hiện như 1 sự gián đoạn hoặc báo hiệu 1 xu hướng giảm giá mạnh, ủng hộ cho sự đảo ngược về giá.
Mô hình ” đầu và vai” là một trong nhiều loại mô hình đồ thị khác nhau mà được sử dụng để hoạch định cho chiến lược về giá. Các nhà phân tích đo lường khoảng cách từ đỉnh “head” đến đường tiệm cận của đồ thị sau đó trừ đi khoảng cách từ điểm ngừng của đường tiệm cận để tính toán xem giá có thể giảm đến mức nào.
Mô hình đảo ngược các đáy “đầu và vai” (Head-and-shoulders bottom reversal) :
Có thể nói mô hình 2 đáy là nghịch đảo của mô hình 2 đỉnh, các đáy “vai và đầu” thì cũng giống các đỉnh “vai và đầu” nhưng ngược lại. Điều này có nghĩa là giá trượt xuống 1 mức thấp (left shoulder), tăng trở lại sau 1 thời gian, sau đó giảm xuống đến 1 mức thấp hơn (head), lại tăng trở lại và sau cùng là hạ xuống lần nữa đến 1 mức thấp xấp xỉ với mức “left shoulder” (right shoulder).
Mô hình ” đầu và vai” là một trong nhiều loại mô hình đồ thị khác nhau mà được sử dụng để hoạch định cho chiến lược về giá. Các nhà phân tích đo lường khoảng cách từ đỉnh “head” đến đường tiệm cận của đồ thị sau đó trừ đi khoảng cách từ điểm ngừng của đường tiệm cận để tính toán xem giá có thể giảm đến mức nào.
Mô hình đảo ngược các đáy “đầu và vai” (Head-and-shoulders bottom reversal) :
Có thể nói mô hình 2 đáy là nghịch đảo của mô hình 2 đỉnh, các đáy “vai và đầu” thì cũng giống các đỉnh “vai và đầu” nhưng ngược lại. Điều này có nghĩa là giá trượt xuống 1 mức thấp (left shoulder), tăng trở lại sau 1 thời gian, sau đó giảm xuống đến 1 mức thấp hơn (head), lại tăng trở lại và sau cùng là hạ xuống lần nữa đến 1 mức thấp xấp xỉ với mức “left shoulder” (right shoulder).
Đường tiệm cận của đồ thị rất quan trọng. Khi giá vượt khỏi đường tiệm cận này, mô hình đảo ngược kết thúc và 1 xu hướng tăng tiềm năng có thể xuất hiện. Cùng với các đỉnh ” vai và đầu”, có thể có 1 vài giao dịchvề phía sau và phía trước theo cả 2 phía của đường tiệm cận khi thị trường quyết định chọn hướng đi, và khoảng cách giữa đường tiệm cận và đỉnh “head” có thể được sử dụng để dự đoán xem giá có thể biến động như thế nào.
Mô hình “sụt giá theo 1 mũi nhọn” (Falling wedge) :
Mô hình này xuất hiện khi thị trường đang trong xu hướng đồng loạt giảm giá và các loại giá cao giảm nhanh hơn các loại thấp, giống như dạng mũi nhọn. Người bán có thể đẩy giá đến mức thấp hơn nhưng do có 1 lượng mua hỗ trợ để giữ thị trường không bị giảm giá thấp hơn. Cuối cùng sức mạnh của bên bán bắt đầu cạn dần và không thể khiến giá thị trường giảm thấp hơn nữa, và thị trường bắt đầu bật dậy khi thế lực của bên bán vượt hẳn bên mua. Những mô hình như thế này thường có hướng tăng giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường.
Mô hình “sụt giá theo 1 mũi nhọn” (Falling wedge) :
Mô hình này xuất hiện khi thị trường đang trong xu hướng đồng loạt giảm giá và các loại giá cao giảm nhanh hơn các loại thấp, giống như dạng mũi nhọn. Người bán có thể đẩy giá đến mức thấp hơn nhưng do có 1 lượng mua hỗ trợ để giữ thị trường không bị giảm giá thấp hơn. Cuối cùng sức mạnh của bên bán bắt đầu cạn dần và không thể khiến giá thị trường giảm thấp hơn nữa, và thị trường bắt đầu bật dậy khi thế lực của bên bán vượt hẳn bên mua. Những mô hình như thế này thường có hướng tăng giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường.
Mô hình “tăng giá theo 1 mũi nhọn” (Rising wedge) :
Mô hình này ngược lại với mô hình trên và xuất hiện khi thị trường ở xu hướng tăng giá. Người mua tiếp tục đẩy đẩy các loại giá thấp trong ngày lên, nhưng người mua đã giữ cho giá thị trường không lên quá cao. Sau cùng việc mua đã giảm và người bán nắm thị trường, và đẩy giá xuống thấp hơn mũi nhọn tạm thời của xu hướng tăng giá. Những mô hình như thế này thường có hướng giảm giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường.
Mô hình này ngược lại với mô hình trên và xuất hiện khi thị trường ở xu hướng tăng giá. Người mua tiếp tục đẩy đẩy các loại giá thấp trong ngày lên, nhưng người mua đã giữ cho giá thị trường không lên quá cao. Sau cùng việc mua đã giảm và người bán nắm thị trường, và đẩy giá xuống thấp hơn mũi nhọn tạm thời của xu hướng tăng giá. Những mô hình như thế này thường có hướng giảm giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường.
Mô hình “kim cương” (diamond pattern) :
Đây là 1 mô hình hiếm thấy xuất hiện thường xuất hiện những thị trường giá cao. Sự hay thay đổi tăng lên ở các mức giá cao hơn, tạo ra 1 phạm vi của giá trần và giá sàn trong 1 giao dịch rộng hơn để tạo nên 1 đoạn rộng nhất của mô hình ” kim cương”. Sau đó sự thay đổi này giảm xuống về phía phải của các mức giá cao và dãy biến động giá trở nên hẹp hơn khi xu hướng giống như dạng “mô hình tam giác” để kết thúc diễn biến của mô hỉnh ” kim cương”. Sự hay thay đổi theo hướng thấp, cao, thấp liên tiếp nhau này thường tự tạo ra chiều hướng của mình đến khi kết thúc.
Đây là 1 mô hình hiếm thấy xuất hiện thường xuất hiện những thị trường giá cao. Sự hay thay đổi tăng lên ở các mức giá cao hơn, tạo ra 1 phạm vi của giá trần và giá sàn trong 1 giao dịch rộng hơn để tạo nên 1 đoạn rộng nhất của mô hình ” kim cương”. Sau đó sự thay đổi này giảm xuống về phía phải của các mức giá cao và dãy biến động giá trở nên hẹp hơn khi xu hướng giống như dạng “mô hình tam giác” để kết thúc diễn biến của mô hỉnh ” kim cương”. Sự hay thay đổi theo hướng thấp, cao, thấp liên tiếp nhau này thường tự tạo ra chiều hướng của mình đến khi kết thúc.
Như vậy, các bạn đã tìm hiểu xong các mô hình tiếp diễn và các mô hình đảo chiều cơ bản. Để làm quen với việc nhận diện ra các mô hình này trên biểu đồ, bạn cần thời gian tập luyện. Bạn nên bắt đầu bằng việc xem lại các biểu đồ trong quá khứ và thử tìm xem các mô hình này đã xuất hiện như thế nào. Khi đã quen với việc nhận diện ra chúng, bạn sẽ nắm bắt được nhiều cơ hội giao dịch tốt.
Còn rất nhiều khái niệm khác cần được đề cập đến trong bất kỳ bàn luận nào về các mô hình đồ thị cơ bản vì chúng là 1 phần không thể thiếu của bất kỳ kỹ thuật phân tích nào.
Mức giá sàn (support) và mức giá trần (resistance) – như những gì đã đề cập trong bài viết này, các kỹ thuật phân tích bắt đầu với những đường xu hướng. Đường xu hướng cũng là điểm đầu tiên của các mức giá sàn và giá trần. Dự kiến 1 đường xu hướng để quyết định vùng giá sàn và giá trần trong tương lai luôn đem lại hiệu quả. 1 đường xu hướng dọc theo các mức giá thấp là 1 đường hướng lên và và ngược lại nếu đi qua các điểm giá cao là 1 đường hướng xuống và đó là ranh giới quan trọng để vượt qua nếu thị trường định thay đổi xu hướng.
Mức giá sàn (support) và mức giá trần (resistance) – như những gì đã đề cập trong bài viết này, các kỹ thuật phân tích bắt đầu với những đường xu hướng. Đường xu hướng cũng là điểm đầu tiên của các mức giá sàn và giá trần. Dự kiến 1 đường xu hướng để quyết định vùng giá sàn và giá trần trong tương lai luôn đem lại hiệu quả. 1 đường xu hướng dọc theo các mức giá thấp là 1 đường hướng lên và và ngược lại nếu đi qua các điểm giá cao là 1 đường hướng xuống và đó là ranh giới quan trọng để vượt qua nếu thị trường định thay đổi xu hướng.
Tuy nhiên đường xu hướng không chỉ là nguồn gốc của các mức giá sàn và giá trần. 1 trong những phương pháp phổ biến để quyết định các mức giá sàn và giá trần là dựa vào 1 dãy đồ thị và các mức giá trước đây của chúng, sau đó quan sát xem mức giá nào là mức giá cao, mức giá thấp và mức gần nhất dễ đạt đến nhất. Phương pháp quyết định mức giá sàn và mức giá trần dựa trên bất kỳ dãy đồ thị ở các khung thời gian như mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tuần và mỗi tháng. 1 loạt giá cao và thấp nhiều lần tập trung ở các vùng giá thấp nhưng không phải là 1 mức giá nhất định. Thay vào đó nếu có 1 miền giá trần và giá sàn hẹp sẽ hiệu quả hơn.
Nhiều đỉnh và đáy cũng là các mức giá sàn và giá trần. Những đoạn giá bỏ trống trên đồ thị cũng được xem như những mức giá trần và giá sàn tốt. Đường dịch chuyển trung bình, đặc biệt là những đường dài hạn, có thể cung cấp các mức giá sàn và giá trần. Ngoài ra còn có cách khác để nhận biết các mức giá sàn và giá trần như là qua các góc hình học từ các điểm quan trọng xác định, 1 khái niệm liên quan đến W.D.Gann (1 người kinh doanh chứng khoán và hàng hóa trước đây đã qua đời vào năm 1955).
Cuối cùng, các mức giá trần và giá sàn có thể quyết định bởi các mức giá “tâm lý” (psychological price levels). Chúng thường là những số được làm tròn nhưng lại rất có ý nghĩa trong 1 thị trường. Ví dụ như đối với dầu thô thì mức giá “tâm lý” là khoảng 60$/ thùng. Đối với đậu nành, thì mức giá có thể là 5$ hoặc 6$/giạ hay vải cotton là 0.5$/ pao(0.45g). Những điểm giá này xác định các mức giá tăng hoặc giảm khi thị trường tạm ngưng để củng cố lại.
Nhiều mô hình đồ thị được phát triển là kết quả của sự biến động của giá trong vùng giá sàn và giá trần. Ví dụ như mô hình 2 đáy có thể hình thành bởi vì thị trường tìm ra được mức giá sàn từ 1 điểm đáy trước, hoặc là mô hình tam giác được định hình khi giá không thể vượt qua mức giá sàn và giá trần của đường xu hướng trong ngắn hạn cho đến khi có sự phá vỡ xuất hiện.
Một điểm quan trọng cần chú ý về các mức giá sàn và giá trần là khi mức giá sàn quan trọng hoặc là 1 miền giá bị phá vỡ theo hướng giảm, thì mức giá hoặc miền giá đó có thể sẽ trở thành mức giá trần quan trọng. Cũng như thế, 1 mức giá trần hoặc 1 miền giá quyết định sẽ bị phá vỡ theo hướng tăng sau đó có thể trở thành mức giá mức giá sàn hoặc vùng giá quan trọng.
Sự quay trở lại xu hướng cũ (retracement) – 1 cách khác để tìm ra vùng giá trần và giá sàn là bằng cách tìm ở “retracement” của sự di chuyển các mức giá quan trọng. Giá biến động có nghĩa là có sự chống lại xu hướng đang tồn tại. Những biến động này có thể gọi là sự điều chỉnh của thị trường (correction). Một khi thị trường đã vượt ra khỏi xu hướng ban đầu, điều đầu tiên mà nhiều người giao dịch muốn biết là sự biến đổi này hay sự điều chỉnh này sẽ đi đến đâu.
Dựa trên những nghiên cứu về giá trước đây, 1 “retracement” phổ biến là khoảng 50% xu hướng cũ. Ví dụ như 1 thị trường đang có xu hướng tăng chắc chắn thường bắt đầu từ mức giá 100 và tăng dần lên đến 200. Sau đó sẽ có điều chỉnh, thông thường thì thị trường hiếm khi biến động theo 1 chiều. Vậy khi nào giá của 1 thị trường sẽ đổi hướng? Những nhà phân tích dựa trên “retracement” thì đặt ra 1 mục tiêu khoảng 150 hay 50% của sự dịch chuyển giá từ 100 đến 200 và mong rằng giá sẽ bật lên và trở lại hướng tăng sau khi chạm đến 1 mức nào đó. Sự điều chỉnh “retracement” thấp hơn 50% chỉ sổ trung bình là 1 xu hướng mạnh, ngược lại là 1 xu hướng yếu.
Mức 50% không chỉ là 1 mức “retracement” phổ biến. Một số nhà phân tích sử dụng mức từ 33% đến 67% như các mức trần và mức sàn. Còn theo các số liệu mang tính quy luật thì sử dụng mức từ 0.382% đến 0.618% của 1 sự di chuyển ưu tiên như các mức trần và mức sàn quyết định.
Cho dù bạn sử dụng như 1 mục tiêu “ retracement” như thế nào thì bạn có thể đạt được 1 giá trị cao nếu như nó trùng khớp với dạng mức sàn và mức trần quan trọng như 1 đường xu hướng, mức cao hoặc thấp trước đây hay 1 khoảng trống.
Nhiều đỉnh và đáy cũng là các mức giá sàn và giá trần. Những đoạn giá bỏ trống trên đồ thị cũng được xem như những mức giá trần và giá sàn tốt. Đường dịch chuyển trung bình, đặc biệt là những đường dài hạn, có thể cung cấp các mức giá sàn và giá trần. Ngoài ra còn có cách khác để nhận biết các mức giá sàn và giá trần như là qua các góc hình học từ các điểm quan trọng xác định, 1 khái niệm liên quan đến W.D.Gann (1 người kinh doanh chứng khoán và hàng hóa trước đây đã qua đời vào năm 1955).
Cuối cùng, các mức giá trần và giá sàn có thể quyết định bởi các mức giá “tâm lý” (psychological price levels). Chúng thường là những số được làm tròn nhưng lại rất có ý nghĩa trong 1 thị trường. Ví dụ như đối với dầu thô thì mức giá “tâm lý” là khoảng 60$/ thùng. Đối với đậu nành, thì mức giá có thể là 5$ hoặc 6$/giạ hay vải cotton là 0.5$/ pao(0.45g). Những điểm giá này xác định các mức giá tăng hoặc giảm khi thị trường tạm ngưng để củng cố lại.
Nhiều mô hình đồ thị được phát triển là kết quả của sự biến động của giá trong vùng giá sàn và giá trần. Ví dụ như mô hình 2 đáy có thể hình thành bởi vì thị trường tìm ra được mức giá sàn từ 1 điểm đáy trước, hoặc là mô hình tam giác được định hình khi giá không thể vượt qua mức giá sàn và giá trần của đường xu hướng trong ngắn hạn cho đến khi có sự phá vỡ xuất hiện.
Một điểm quan trọng cần chú ý về các mức giá sàn và giá trần là khi mức giá sàn quan trọng hoặc là 1 miền giá bị phá vỡ theo hướng giảm, thì mức giá hoặc miền giá đó có thể sẽ trở thành mức giá trần quan trọng. Cũng như thế, 1 mức giá trần hoặc 1 miền giá quyết định sẽ bị phá vỡ theo hướng tăng sau đó có thể trở thành mức giá mức giá sàn hoặc vùng giá quan trọng.
Sự quay trở lại xu hướng cũ (retracement) – 1 cách khác để tìm ra vùng giá trần và giá sàn là bằng cách tìm ở “retracement” của sự di chuyển các mức giá quan trọng. Giá biến động có nghĩa là có sự chống lại xu hướng đang tồn tại. Những biến động này có thể gọi là sự điều chỉnh của thị trường (correction). Một khi thị trường đã vượt ra khỏi xu hướng ban đầu, điều đầu tiên mà nhiều người giao dịch muốn biết là sự biến đổi này hay sự điều chỉnh này sẽ đi đến đâu.
Dựa trên những nghiên cứu về giá trước đây, 1 “retracement” phổ biến là khoảng 50% xu hướng cũ. Ví dụ như 1 thị trường đang có xu hướng tăng chắc chắn thường bắt đầu từ mức giá 100 và tăng dần lên đến 200. Sau đó sẽ có điều chỉnh, thông thường thì thị trường hiếm khi biến động theo 1 chiều. Vậy khi nào giá của 1 thị trường sẽ đổi hướng? Những nhà phân tích dựa trên “retracement” thì đặt ra 1 mục tiêu khoảng 150 hay 50% của sự dịch chuyển giá từ 100 đến 200 và mong rằng giá sẽ bật lên và trở lại hướng tăng sau khi chạm đến 1 mức nào đó. Sự điều chỉnh “retracement” thấp hơn 50% chỉ sổ trung bình là 1 xu hướng mạnh, ngược lại là 1 xu hướng yếu.
Mức 50% không chỉ là 1 mức “retracement” phổ biến. Một số nhà phân tích sử dụng mức từ 33% đến 67% như các mức trần và mức sàn. Còn theo các số liệu mang tính quy luật thì sử dụng mức từ 0.382% đến 0.618% của 1 sự di chuyển ưu tiên như các mức trần và mức sàn quyết định.
Cho dù bạn sử dụng như 1 mục tiêu “ retracement” như thế nào thì bạn có thể đạt được 1 giá trị cao nếu như nó trùng khớp với dạng mức sàn và mức trần quan trọng như 1 đường xu hướng, mức cao hoặc thấp trước đây hay 1 khoảng trống.
Vùng trống (gap) – Vùng trống là những vùng mà không có giao dịch nào xảy ra. Dãy giá thấp sau cùng thì cao hơn dãy giá cao đối với 1 dịch chuyển của 1 vùng trống hướng lên. Dãy giá cao sau cùng thấp hơn dãy giá thấp trước đó để tạo ra sự dịch chuyển của 1 vùng trống hướng xuống. Ví dụ như nếu thị trường gần đến mức 100 trong 1 phiên và sau đó mở rộng đến 105 ở phiên tiếp theo thì sẽ có 1 vùng trống hiển nhiên trên đồ thị.
Với các giao dịch điện tử 24/24 thì vùng trống ít có khả năng xuất hiện khi thị trường dễ di chuyển từ mức giá đến mức giá khác. Tuy nhiên đối với những thị trường chỉ có các phiên trong ngày mà gồm những hàng hóa mang tính vật chất nhất ( ví dụ như chứng khoán) thì các vùng trống có thể lộ ra bởi những tin tức hoặc hướng phát triển có giá trị trong 1 đêm mà tạo ra 1 sự thay đổi đột ngột về giá. Các vùng giá trống là biểu hiện tiêu biểu của sự thay đổi mạnh của thị trường và sau đó sẽ tạo ra các mức giá sàn và giá trần quan trọng trên đồ thị.
Với các giao dịch điện tử 24/24 thì vùng trống ít có khả năng xuất hiện khi thị trường dễ di chuyển từ mức giá đến mức giá khác. Tuy nhiên đối với những thị trường chỉ có các phiên trong ngày mà gồm những hàng hóa mang tính vật chất nhất ( ví dụ như chứng khoán) thì các vùng trống có thể lộ ra bởi những tin tức hoặc hướng phát triển có giá trị trong 1 đêm mà tạo ra 1 sự thay đổi đột ngột về giá. Các vùng giá trống là biểu hiện tiêu biểu của sự thay đổi mạnh của thị trường và sau đó sẽ tạo ra các mức giá sàn và giá trần quan trọng trên đồ thị.
Vùng trống không thể được mô tả như 1 dấu hiệu nghịch đảo hay tiếp diễn mà những vùng trống khác nhau có nghĩa khác nhau – đôi khi chúng có những ảnh hưởng không nhỏ chút nào. Có 3 dạng vùng trống chính sau đây:
- Vùng trống chạy trốn (breakaway gap) : Vùng trống này xuất hiện ở đầu của 1 sự thay đổi về giá khi giá không theo hướng cũ mà đột nhiên đi ngược chiều hoặc vượt ra khỏi đồ thị đã hình thành như tạo ra 1 hướng đi hay 1 dạng tạm giác. Điểm “breakaway” có thể do những điều kiện mới mà người giao dịch đã biết hoặc việc mua hay bán bị kiềm lại xảy ra trong 1 hướng đi mạnh.
- Vùng trống đo lường được (measuring gap): Khi thị trường dịch chuyển lên hay xuống, nó có thể đột nhiên thay đổi tạo ra 1 vùng trống cao hơn hoặc thấp hơn với 1 mức phát triển mới. Một số nhà phân tích xem vùng trống dạng này như 1 điểm nửa chừng để đi đến 1 đích giá cuối cùng. Rõ ràng là không thể biết chắc điều này đến khi chấm dứt sự dịch chuyển vì vậy những vùng trống như dạng này chỉ là 1 mẹo nhỏ được sử dụng trong phân tích. Tuy nhiên, bạn có thể liên kết các vùng trống với các vùng giá trần và giá sàn xác định như là sự tăng lên hay giảm xuống để mục tiêu giá tiềm năng.
- Vùng trống suy yếu (exhaustion gap) : Vùng trống này xuất hiện ở cuối của 1 sự dịch chuyển mở rộng và phản ánh sự bùng phát cuối cùng của việc mua ở thị trường hướng lên hoặc là bán ra ở thị trường hướng xuống. Một khi việc mua hoặc bán này xảy ra thì sẽ không có thêm người mua hoặc bán nào mới để duy trì xu hướng – thế lực để vận hành xu hướng đã suy yếu. Kết quả là sự thay đổi trong xu hướng có thể tạo ra những chuyển động đột ngột ngược với định hướng như là sự tranh giành muộn của người mua hoặc người bán để tránh vị thế kém của họ. Đây là 1 dạng tình huống mà đôi khi tạo ra 1 vùng đỉnh hay 1 vùng đáy trên đồ thị. Các hoạt động của giá trong 1 ngày hoặc nhiều ngày có thể bị cô lập bởi các vùng trống suy yếu và sau đó 1 vùng trống ly khai sẽ đột nhiên quay ngược lại.
( Maxi-Forex.com lược dịch theo TradingEducation.com)
- Vùng trống chạy trốn (breakaway gap) : Vùng trống này xuất hiện ở đầu của 1 sự thay đổi về giá khi giá không theo hướng cũ mà đột nhiên đi ngược chiều hoặc vượt ra khỏi đồ thị đã hình thành như tạo ra 1 hướng đi hay 1 dạng tạm giác. Điểm “breakaway” có thể do những điều kiện mới mà người giao dịch đã biết hoặc việc mua hay bán bị kiềm lại xảy ra trong 1 hướng đi mạnh.
- Vùng trống đo lường được (measuring gap): Khi thị trường dịch chuyển lên hay xuống, nó có thể đột nhiên thay đổi tạo ra 1 vùng trống cao hơn hoặc thấp hơn với 1 mức phát triển mới. Một số nhà phân tích xem vùng trống dạng này như 1 điểm nửa chừng để đi đến 1 đích giá cuối cùng. Rõ ràng là không thể biết chắc điều này đến khi chấm dứt sự dịch chuyển vì vậy những vùng trống như dạng này chỉ là 1 mẹo nhỏ được sử dụng trong phân tích. Tuy nhiên, bạn có thể liên kết các vùng trống với các vùng giá trần và giá sàn xác định như là sự tăng lên hay giảm xuống để mục tiêu giá tiềm năng.
- Vùng trống suy yếu (exhaustion gap) : Vùng trống này xuất hiện ở cuối của 1 sự dịch chuyển mở rộng và phản ánh sự bùng phát cuối cùng của việc mua ở thị trường hướng lên hoặc là bán ra ở thị trường hướng xuống. Một khi việc mua hoặc bán này xảy ra thì sẽ không có thêm người mua hoặc bán nào mới để duy trì xu hướng – thế lực để vận hành xu hướng đã suy yếu. Kết quả là sự thay đổi trong xu hướng có thể tạo ra những chuyển động đột ngột ngược với định hướng như là sự tranh giành muộn của người mua hoặc người bán để tránh vị thế kém của họ. Đây là 1 dạng tình huống mà đôi khi tạo ra 1 vùng đỉnh hay 1 vùng đáy trên đồ thị. Các hoạt động của giá trong 1 ngày hoặc nhiều ngày có thể bị cô lập bởi các vùng trống suy yếu và sau đó 1 vùng trống ly khai sẽ đột nhiên quay ngược lại.
( Maxi-Forex.com lược dịch theo TradingEducation.com)
Mô Hình Giá Harmonic
(Edit by biinfo.info)
Mô hình ABCD
Hãy bắt đầu bài học này với mô hình harmonic đơn giản nhất. Để nhận biết mô hình biểu đồ này, tất cả cái bạn cần là sự tinh mắt và công cụ Fibonacci. Đối với cả 2 dạng tăng và giảm của mô hình biểu đồ ABCD, đường AB và CD được gọi là chân trong khi BC được gọi là điều chỉnh hoặc thoái lui. Nếu bạn sử dụng Fibonacci thoái lui với chân AB, đường BC thoái lui có thể chạm đến mức 0.618. Sau đó, đường CD sẽ đạt đến mức 1.272 của Fibonacci mở rộng của BC.
Đơn giản phải không? Tất cả cái bạn phải làm là chờ đợi cho toàn bộ mô hình hoàn thành (đạt được điểm D) trước khi tiến hành giao dịch.
Hãy bắt đầu bài học này với mô hình harmonic đơn giản nhất. Để nhận biết mô hình biểu đồ này, tất cả cái bạn cần là sự tinh mắt và công cụ Fibonacci. Đối với cả 2 dạng tăng và giảm của mô hình biểu đồ ABCD, đường AB và CD được gọi là chân trong khi BC được gọi là điều chỉnh hoặc thoái lui. Nếu bạn sử dụng Fibonacci thoái lui với chân AB, đường BC thoái lui có thể chạm đến mức 0.618. Sau đó, đường CD sẽ đạt đến mức 1.272 của Fibonacci mở rộng của BC.
Đơn giản phải không? Tất cả cái bạn phải làm là chờ đợi cho toàn bộ mô hình hoàn thành (đạt được điểm D) trước khi tiến hành giao dịch.
Nếu như bạn muốn hiểu sâu sắc hơn, đây là vài quy luật cho một mô hình ABCD đúng:
Chiều dài của AB thường bằng với độ dài CD
Thời gian cần cho giá để đi từ A đến B thường bằng thời gian giá đi từ C đến D.
Mô hình Three-Drive
Mô hình Three-Drive rất giống với mô hình ABCD ngoại trừ nó có 3 chân (mà ta gọi là drives) và 2 điều chỉnh hoặc thoái lui. Trong thực tế, đây chính là tổ tiên của mô hình sóng Elliott.
Như thường lệ, cái bạn cần là tinh mắt, công cụ Fibonacci, và một chút kiên nhẫn.
Chiều dài của AB thường bằng với độ dài CD
Thời gian cần cho giá để đi từ A đến B thường bằng thời gian giá đi từ C đến D.
Mô hình Three-Drive
Mô hình Three-Drive rất giống với mô hình ABCD ngoại trừ nó có 3 chân (mà ta gọi là drives) và 2 điều chỉnh hoặc thoái lui. Trong thực tế, đây chính là tổ tiên của mô hình sóng Elliott.
Như thường lệ, cái bạn cần là tinh mắt, công cụ Fibonacci, và một chút kiên nhẫn.
Như bạn thấy ở biểu đồ trên, điểm A ở tại mức khoảng 61.8% Fibonacci thoái lui của drive 1. Sau đó, drive 2 đạt đến mức 1.272 Fibonacci mở rộng của thoái lui A và drive 3 sẽ ở mức 1.272 Fibonacci mở rộng của thoái lui B.
Theo thời gian, mô hình Three-Drive được hoàn tất, đó là khi bạn có thể đưa ra quyết định mua hay bán. Thông thường, khi giá đạt đến điểm B, bạn đã có thể thiết lập giao dịch .
Nhưng trước tiên, bạn hãy kiểm tra theo những quy tắc dưới đây :
Edit by biinfo.info Page 31
Thời gian giá hoàn thành drive 2 bằng với thời gian hoàn thành drive 3.
Thời gian hoàn thành thoái lui A và B bằng nhau.
Mô hình Gartley a.k.a “2222”
Mô hình Gartley “222” được đặt tên theo số trang được tìm thấy trong cuốn sách của H.M Gartleys, “Profits in the Stock Market”. Gartleys là những mô hình mà bao gồm mô hình cơ bản ABCD mà chúng ta vừa nói đến, nhưng được sắp xếp cao thấp khác nhau.
Bây giờ, những mô hình này hình thành khi có sự điều chỉnh của xu hướng chung và trong giống như chữ M ( hoặc W đối với mô hình giảm). Những mô hình được sử dụng để giúp các nhà giao dịch tìm ra điểm vào lệnh tốt để tham gia thị trường trong một xu hướng tổng thể.
Theo thời gian, mô hình Three-Drive được hoàn tất, đó là khi bạn có thể đưa ra quyết định mua hay bán. Thông thường, khi giá đạt đến điểm B, bạn đã có thể thiết lập giao dịch .
Nhưng trước tiên, bạn hãy kiểm tra theo những quy tắc dưới đây :
Edit by biinfo.info Page 31
Thời gian giá hoàn thành drive 2 bằng với thời gian hoàn thành drive 3.
Thời gian hoàn thành thoái lui A và B bằng nhau.
Mô hình Gartley a.k.a “2222”
Mô hình Gartley “222” được đặt tên theo số trang được tìm thấy trong cuốn sách của H.M Gartleys, “Profits in the Stock Market”. Gartleys là những mô hình mà bao gồm mô hình cơ bản ABCD mà chúng ta vừa nói đến, nhưng được sắp xếp cao thấp khác nhau.
Bây giờ, những mô hình này hình thành khi có sự điều chỉnh của xu hướng chung và trong giống như chữ M ( hoặc W đối với mô hình giảm). Những mô hình được sử dụng để giúp các nhà giao dịch tìm ra điểm vào lệnh tốt để tham gia thị trường trong một xu hướng tổng thể.
Một Gartley được hình thành khi giá biến động trên một xu hướng tăng (hoặc giảm) nhưng sau đó bắt đầu có tín hiệu của sự điều chỉnh.
Điều làm cho Gartley là một thiếp lập hiệu quả khi mà nó được hình thành từ những điểm đảo chiều của các mức Fibonacci thoái lui và mở rộng. Điều này cho các dấu hiệu mạnh mẽ rằng cặp tiền thực sự có thể sẽ đảo ngược.
Mô hình này có thể khó nhận biết và bạn dễ rối rắm khi phải bật các công cụ Fibonacci. Chiều khóa đễ tránh sự lộn xộn này là hãy làm mọi thứ từng bước một.
Edit by biinfo.info Page 32
Trong mọi trường hợp, nó chứa đựng một mô hình ABCD tăng hoặc giảm, nhưng có điểm X trước đó. Một mô hình Gartley hoàn hảo có những đặc điểm sau đây :
1. Đường di chuyển AB ở khoảng mức thoái lui 0.618 của Fibonacci đường XA.
2. Đường di chuyển BC ở khoảng mức thoai lui 0.382 hoặc 0.886 của Fibonacci đường AB.
3. Nếu đường BC là ở khoảng mức thoái lui 0.382 của Fibonacci đường AB, thì đường CD nên ở mức 1.272 của BC. Ngược lại nếu BC ở mức 0.886 thì CD ở mức mở rộng 1.618 của BC.
4. Đường CD nên ở mức thoái lui 0.786 của đường XA.
Mô hình Cua
Điều làm cho Gartley là một thiếp lập hiệu quả khi mà nó được hình thành từ những điểm đảo chiều của các mức Fibonacci thoái lui và mở rộng. Điều này cho các dấu hiệu mạnh mẽ rằng cặp tiền thực sự có thể sẽ đảo ngược.
Mô hình này có thể khó nhận biết và bạn dễ rối rắm khi phải bật các công cụ Fibonacci. Chiều khóa đễ tránh sự lộn xộn này là hãy làm mọi thứ từng bước một.
Edit by biinfo.info Page 32
Trong mọi trường hợp, nó chứa đựng một mô hình ABCD tăng hoặc giảm, nhưng có điểm X trước đó. Một mô hình Gartley hoàn hảo có những đặc điểm sau đây :
1. Đường di chuyển AB ở khoảng mức thoái lui 0.618 của Fibonacci đường XA.
2. Đường di chuyển BC ở khoảng mức thoai lui 0.382 hoặc 0.886 của Fibonacci đường AB.
3. Nếu đường BC là ở khoảng mức thoái lui 0.382 của Fibonacci đường AB, thì đường CD nên ở mức 1.272 của BC. Ngược lại nếu BC ở mức 0.886 thì CD ở mức mở rộng 1.618 của BC.
4. Đường CD nên ở mức thoái lui 0.786 của đường XA.
Mô hình Cua
Vào năm 2000, Scott Carney , một người tin tưởng vững chắc vào mô hình giá harmonic, đã khám phá ra mô hình “Cua”
Theo ông, đây là mẫu chính xác nhất trong tất cả các mô hình harmonic. Mô hình này có tỷ lệ risk and reward khá cao do bạn có thể đặt điểm dừng rất sâu. Mô hình cua hoàn hảo phải có các đặc điểm sau :
1. Đường AB nên ở mức thoái lui 0.382 hoặc 0.618 của đường XA.
2. Đường BC có thể ở 2 mức thoái lui 0.382 hoặc 0.886 của đường AB.
3. Nếu đường BC thoái lui ở mức 0.382 của AB, thì CD nên ở mức 2.24 của BC. Ngược lại nếu đường BC là 0.886 của đường AB thì CD nên ở mức mở rộng 3.618 của đường BC.
4. CD nên ở mức mở rộng 1.618 của đường XA.
Edit by biinfo.info Page 33
Mô hình Dơi
Theo ông, đây là mẫu chính xác nhất trong tất cả các mô hình harmonic. Mô hình này có tỷ lệ risk and reward khá cao do bạn có thể đặt điểm dừng rất sâu. Mô hình cua hoàn hảo phải có các đặc điểm sau :
1. Đường AB nên ở mức thoái lui 0.382 hoặc 0.618 của đường XA.
2. Đường BC có thể ở 2 mức thoái lui 0.382 hoặc 0.886 của đường AB.
3. Nếu đường BC thoái lui ở mức 0.382 của AB, thì CD nên ở mức 2.24 của BC. Ngược lại nếu đường BC là 0.886 của đường AB thì CD nên ở mức mở rộng 3.618 của đường BC.
4. CD nên ở mức mở rộng 1.618 của đường XA.
Edit by biinfo.info Page 33
Mô hình Dơi
Xuất hiện năm 2001, Scott Carney đã tìm ra một mô hình giá Harmonic khác gọi là “dơi”. Mô hình dơi được diễn tả bở sự thoái lui ở mức 0.886 của XA như vùng có khả năng đổi chiều. Mô hình Dơi có những tính chất sau :
1. Đường AB nên là mức thoái lui 0.382 hoặc 0.500 của XA.
2. Đường BC có thể là mức thoái lui ở 0.382 hoặc 0.886 của AB.
3. Nếu đường BC ở mức thoái lui 0.382 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 1.618 của đường BC. Ngược lại nếu đường BC là 0.886 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 2.618 của BC.
4. CD nên ở mức thoái lui 0.886 của XA.
Mô hình Bướm
1. Đường AB nên là mức thoái lui 0.382 hoặc 0.500 của XA.
2. Đường BC có thể là mức thoái lui ở 0.382 hoặc 0.886 của AB.
3. Nếu đường BC ở mức thoái lui 0.382 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 1.618 của đường BC. Ngược lại nếu đường BC là 0.886 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 2.618 của BC.
4. CD nên ở mức thoái lui 0.886 của XA.
Mô hình Bướm
Cuối cùng là mô hình bướm. Được tạo ra bởi Bryce Gilmore, một mô hình Bướm hoàn hảo được định hình từ mức thoái lui 0.786 của đường AB đối với Fibonacci của XA. Mô hình bướm mang theo những tính chất đặc biệt sau đây :
1. Đường AB nên ở mức thoái lui 0.786 của đường XA.
2. Đường BC có thể là mức thoái lui 0.382 hoặc 0.886 của AB.
3. Nếu đường BC ở mức thoái lui 0.382 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 1.618 của BC.Ngược lại, nếu BC là mức thoái lui 0.886 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 2.618 của BC.
4. CD nên là mức mở rộng 1.27 hoặc 1.618 của đường XA.
1. Đường AB nên ở mức thoái lui 0.786 của đường XA.
2. Đường BC có thể là mức thoái lui 0.382 hoặc 0.886 của AB.
3. Nếu đường BC ở mức thoái lui 0.382 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 1.618 của BC.Ngược lại, nếu BC là mức thoái lui 0.886 của AB, thì CD nên ở mức mở rộng 2.618 của BC.
4. CD nên là mức mở rộng 1.27 hoặc 1.618 của đường XA.