Một biểu đồ thể hiện giá là một chuỗi những điểm giá trên một khung thời gian nhất định. Theo những giai đoạn thống kê, biểu đồ được đề cập đến như chuỗi những điểm thời gian.
Trên biểu đồ, trục y (trục tung) thể hiện sự phân chia giá và trục x (trục hoành) thể hiện sự phân chia về thời gian. Giá được ghi từ trái sang phải và hợp với trục x tạo thành những điểm xa nhất về phía bên phải. Điểm giá trong IBM kéo dài từ 1/1/1999 đến 13/3/2000.
Các kỹ thuật viên, các nhà phân tích chuyên môn cũng như nhiều nhà biểu đồ học đã sử dụng biểu đồ để phân tích trên diện rộng về sự bố trí của các “chứng nhận sở hữu chứng khoán” như: địa vị xã hội, các tài sản, nhà ở hay thị trường trong tương lai. Bất cứ sự chứng nhận nào về giá trong một khoản thời gian có thể dùng bản đồ để phân tích.
Trong khi hầu như các nhà phân tích kĩ thuật đều sử dụng biểu đồ đặc thù, việc sử dụng các biểu đồ không chỉ dành riêng cho các nhà phân tích chuyên môn. Bởi vì nhìn vào biểu đồ là cách nhanh nhất bể biết được những biến chuyển về giá bảo chứng trong một khoảng thời gian nhất định, chúng cũng đem lại hiệu quả cao nhất trong những phân tích cơ bản. Nhìn trên biểu đồ chúng ta sẽ dễ dàng biết được sự ảnh hưởng của các yếu tố quan trọng về giá của bảo chứng, các giao dịch trong một khoảng thời gian nào đó cũng như sự lên xuống hay ổn định của thị trường .
Làm cách nào để có thể nắm bắt được khung thời gian?
Khung thời gian được sử dụng trong biểu đồ phụ thuộc vào sự cô đọng của các dữ liệu: trong ngày, hang ngày, hàng tuần, hàng quý hay dữ liệu hàng năm. Dữ liệu càng ít cô đọng thì càng nhiều chi tiết được thể hiện trên biểu đồ.
Trên biểu đồ, trục y (trục tung) thể hiện sự phân chia giá và trục x (trục hoành) thể hiện sự phân chia về thời gian. Giá được ghi từ trái sang phải và hợp với trục x tạo thành những điểm xa nhất về phía bên phải. Điểm giá trong IBM kéo dài từ 1/1/1999 đến 13/3/2000.
Các kỹ thuật viên, các nhà phân tích chuyên môn cũng như nhiều nhà biểu đồ học đã sử dụng biểu đồ để phân tích trên diện rộng về sự bố trí của các “chứng nhận sở hữu chứng khoán” như: địa vị xã hội, các tài sản, nhà ở hay thị trường trong tương lai. Bất cứ sự chứng nhận nào về giá trong một khoản thời gian có thể dùng bản đồ để phân tích.
Trong khi hầu như các nhà phân tích kĩ thuật đều sử dụng biểu đồ đặc thù, việc sử dụng các biểu đồ không chỉ dành riêng cho các nhà phân tích chuyên môn. Bởi vì nhìn vào biểu đồ là cách nhanh nhất bể biết được những biến chuyển về giá bảo chứng trong một khoảng thời gian nhất định, chúng cũng đem lại hiệu quả cao nhất trong những phân tích cơ bản. Nhìn trên biểu đồ chúng ta sẽ dễ dàng biết được sự ảnh hưởng của các yếu tố quan trọng về giá của bảo chứng, các giao dịch trong một khoảng thời gian nào đó cũng như sự lên xuống hay ổn định của thị trường .
Làm cách nào để có thể nắm bắt được khung thời gian?
Khung thời gian được sử dụng trong biểu đồ phụ thuộc vào sự cô đọng của các dữ liệu: trong ngày, hang ngày, hàng tuần, hàng quý hay dữ liệu hàng năm. Dữ liệu càng ít cô đọng thì càng nhiều chi tiết được thể hiện trên biểu đồ.
Dữ liệu hàng ngày là cơ sở cho dữ liệu trong ngày được cô đọng lại và thể hiện hàng ngày dưới hình thức những điểm dữ liệu đơn hay chuỗi. Dữ liệu hàng tuần cũng lấy nền tản từ những dữ liệu hàng ngày nhưng được cô đọng hơn và thể hiện hàng tuần bằng những điểm dữ liệu đơn. Sự khác biệt về chi tiết trên biểu đồ hàng ngày và hàng tuần đã được thể hiện trên hai biểu đồ trên. 100 điểm dữ liệu (hay chuỗi dữ liệu) trên biểu đồ hàng ngày thì bằng với dữ liệu trong 5 tháng cuối trên biểu đồ tháng và được thể hiện bằng dữ liệu hình chữ nhật. Dữ liệu càng cô đọng, khung thời gian càng có thể thể hiện được nhiều dữ liệu. Nếu trên biểu đồ có thể thể hiện được 100 điểm dữ liệu thì biểu đồ hàng tuần sẽ có thể thể hiện được dữ liệu trong 100 tuần (tương đương 2 năm. Một biểu đồ hàng ngày có thể thể hiện dữ liệu trong 100 ngày ( khoảng 5 tháng). Có khoảng 20 ngày giao dịch trong 1 tháng và khoảng 252 ngày trong 1 năm. Sự lựa chọn sự cô đọng của dữ liệu và khung thời gian phụ thuộc vào những dữ liệu có sẵn và cach giao dịch hay loại hình đầu tư.
Các nhà giao dịch thường tập trung vào các biểu đồ dữ liệu hàng ngày để dự đoán sự biến động giá cả trong thời gian ngắn. Khung thời gian càng ngắn và dữ liệu càng ít cô đọng thì càng nhiều chi tiết được đưa ra.Trong khi đó những dữ liệu dài, thể hiện trong những khung thời gian ngắn có thể bị thay đổi và rất phức tạp. Một sự biến đổi lớn về giá, trên diện rộng, từ cao đến thấp và những khoảng cách về giá có thể dẫn đến sự biến động làm cho hình dạng của biểu đồ có thể bị thay đổi.
Các nhà đầu tư thì thường tập trung theo dõi các biểu đồ chứa dữ liệu tuần hay dữ liệu tháng hơn là dữ liệu ngày để có thể nắm được xu hướng đầu tư và dự đoán dự biến động về giá trong khoảng thời gian dài. Bởi vì những biểu đồ này thường có thể thể hiện được dữ liệu từ 1 – 4 năm bằng những dữ liệu thật cô đọng, sự biến động giá không xuất hiện như ….
Những người khác có thể sẽ sử dụng cách kết hợp cả biểu đồ dài hạn và biểu đồ ngắn hạn. Biểu đồ dài hạn thường hiệu quả trong việc phân tích những khung thời gian dài để thấy được những góc cạnh của lịch sự hoạt động của giá. Một khi hình ảnh tổng thể được phân tích thì biểu đồ hàng ngày có thể được sử dụng để xem xét trong những tháng cuối.
Biểu đồ được hình thành như thế nào?
Chúng ta sẽ giải thích cách hình thành các biểu đồ dạng line, dạng thanh, dạng giá đỡ nến và các biểu đồ dạng điểm hay những con số. Mặc dù có những cách khác để vẽ biểu đồ nhưng thông thường thỉ chỉ có 3 cách là phổ biến nhất trong việc thể hiện giá.
Line Chart (Biểu đồ dạng đường viền)
Biểu đồ dạng đường viền là một trong những biểu đồ đơn giản nhất. Nó được hình thành bởi cách đánh dấu các điểm giá trong một khoảng thời gian bảo chứng và thường rất gần nhau. Kết nối các chấm nhỏ, hoặc điểm giá, trong một khoảng thời gian để tạo thành các đường viền.
Các nhà giao dịch thường tập trung vào các biểu đồ dữ liệu hàng ngày để dự đoán sự biến động giá cả trong thời gian ngắn. Khung thời gian càng ngắn và dữ liệu càng ít cô đọng thì càng nhiều chi tiết được đưa ra.Trong khi đó những dữ liệu dài, thể hiện trong những khung thời gian ngắn có thể bị thay đổi và rất phức tạp. Một sự biến đổi lớn về giá, trên diện rộng, từ cao đến thấp và những khoảng cách về giá có thể dẫn đến sự biến động làm cho hình dạng của biểu đồ có thể bị thay đổi.
Các nhà đầu tư thì thường tập trung theo dõi các biểu đồ chứa dữ liệu tuần hay dữ liệu tháng hơn là dữ liệu ngày để có thể nắm được xu hướng đầu tư và dự đoán dự biến động về giá trong khoảng thời gian dài. Bởi vì những biểu đồ này thường có thể thể hiện được dữ liệu từ 1 – 4 năm bằng những dữ liệu thật cô đọng, sự biến động giá không xuất hiện như ….
Những người khác có thể sẽ sử dụng cách kết hợp cả biểu đồ dài hạn và biểu đồ ngắn hạn. Biểu đồ dài hạn thường hiệu quả trong việc phân tích những khung thời gian dài để thấy được những góc cạnh của lịch sự hoạt động của giá. Một khi hình ảnh tổng thể được phân tích thì biểu đồ hàng ngày có thể được sử dụng để xem xét trong những tháng cuối.
Biểu đồ được hình thành như thế nào?
Chúng ta sẽ giải thích cách hình thành các biểu đồ dạng line, dạng thanh, dạng giá đỡ nến và các biểu đồ dạng điểm hay những con số. Mặc dù có những cách khác để vẽ biểu đồ nhưng thông thường thỉ chỉ có 3 cách là phổ biến nhất trong việc thể hiện giá.
Line Chart (Biểu đồ dạng đường viền)
Biểu đồ dạng đường viền là một trong những biểu đồ đơn giản nhất. Nó được hình thành bởi cách đánh dấu các điểm giá trong một khoảng thời gian bảo chứng và thường rất gần nhau. Kết nối các chấm nhỏ, hoặc điểm giá, trong một khoảng thời gian để tạo thành các đường viền.
Một số các nhà đầu tư và các nhà giao dịch xem mức độ đóng quan trọng hơn là mức độ mở, cao hoặc thấp. Do chỉ chú ý đến sự đóng nên mảng trong ngày thường bị bỏ quên. biểu đồ dạng đường viền cũng thường được sử dụng khi mở, các điểm dữ liệu cao hay thấp thì không có sẵn. Đôi khi chỉ có những dữ liệu đóng là có sẵn và được chú thích rõ rang, việc giao dịch chứng khoán và giá cả trong ngày là rất mỏng manh.
Bar Chart (Biểu đồ dạng thanh)
Có lẽ trong hầu hết các dạng biểu đồ thì biểu đồ dạng thanh là phổ biến nhất. Mức độ cao thấp và tỷ lệ dày đặc được đòi hỏi để hình thành điểm giá cho mỗi giai đoạn của biểu đồ dạng thanh. Mức độ cao, thấp được thể hiện bởi điểm đầu và điểm cuối của các thanh dọc và tỷ lệ dày đặc là những đường ngắn nằm ngang trên những thanh dọc. Trên biểu đồ hàng ngày, mỗi thanh tượng trưng cho sự cao, thấp, và số lần đóng trong một ngày đặc biệt. Trên biểu đồ hàng tuần mỗi thanh tượng trưng cho một tuần và được căn cứ vào sự đóng của ngày thứ 6 cũng như tỷ lệ cao thấp của tuần đó.
Bar Chart (Biểu đồ dạng thanh)
Có lẽ trong hầu hết các dạng biểu đồ thì biểu đồ dạng thanh là phổ biến nhất. Mức độ cao thấp và tỷ lệ dày đặc được đòi hỏi để hình thành điểm giá cho mỗi giai đoạn của biểu đồ dạng thanh. Mức độ cao, thấp được thể hiện bởi điểm đầu và điểm cuối của các thanh dọc và tỷ lệ dày đặc là những đường ngắn nằm ngang trên những thanh dọc. Trên biểu đồ hàng ngày, mỗi thanh tượng trưng cho sự cao, thấp, và số lần đóng trong một ngày đặc biệt. Trên biểu đồ hàng tuần mỗi thanh tượng trưng cho một tuần và được căn cứ vào sự đóng của ngày thứ 6 cũng như tỷ lệ cao thấp của tuần đó.
Biểu đồ dạng thanh cũng có thể được dùng biểu thị sự mở, cao, thấp hay đóng. Điểm khác biệt duy nhất là có thêm sự mở về giá mà được biểu thị bởi những đường ngắn mở rộng nằm ngang về phía bên trái của thanh. Dù có hay không thì biểu đồ dạng thanh cũng bao gồm cả những điểm mở và phụ thuộc vào các dữ liệu có sẵn.
Biểu đồ dạng thanh rất hiệu quả trong việc biểu thi một số lượng lớn các dữ liệu. Việc sử dụng các biểu đồ dạng đế đèn cầy sẽ chiếm rất nhiều không gian và gây rối mắt. Biểu đồ hình đường viền thì rõ rang hơn nhưng lại thể hiện được quá ít dữ liệu ( không có tỷ lệ cao – thấp). Mỗi thanh riêng lẽ sẽ tạo nên một biểu đồ dạng thanh và được phân biệt bởi các màu sắc trên các thanh, điều này làm cho người đọc biểu đồ có thể làm cho các thanh vừa vặn lại trước khi cảm thấy biểu đồ trở nên rối. Nếu bạn là người không quan tâm đến việc mở giá, biểu đồ dạng thanh là một phương pháp vô cùng lý tưởng cho mối quan hệ đóng từ cao đến thấp. Thêm vào đó, các biểu đồ dạng thanh mà bao gồm sự mở sẽ có khuynh hướng rối mắt nhanh hơn. Nếu bạn quan tâm đến giá mở, thỉ biểu đồ dạng chân đế đèn cầy có lẽ sẽ là sự lựa chọn tốt hơn.
Candlestick Chart (Biểu đồ dạng chân đế đèn cầy)
Ở Nhật Bản cách đây khoảng hơn 300 năm, biểu đồ dạng chân đế đèn cầy đã trở nên khá phổ biến. Trong những biểu đồ này tất cả sự mở, cao, thấp và đóng đều được thể hiện. Một chân đế đèn cầy thể hiện giá mở cũng như sự lên xuồng và đóng của giá trong ngày. Một biểu đồ hàng tuần dạng chân đế đèn cầy thể hiện sự lên xuống hàng tuần của giá được căn cứ vào sự mở cửa giao dịch của ngày thứ 2 và đóng cửa giao dịch của ngày thứ 6.
Biểu đồ dạng thanh rất hiệu quả trong việc biểu thi một số lượng lớn các dữ liệu. Việc sử dụng các biểu đồ dạng đế đèn cầy sẽ chiếm rất nhiều không gian và gây rối mắt. Biểu đồ hình đường viền thì rõ rang hơn nhưng lại thể hiện được quá ít dữ liệu ( không có tỷ lệ cao – thấp). Mỗi thanh riêng lẽ sẽ tạo nên một biểu đồ dạng thanh và được phân biệt bởi các màu sắc trên các thanh, điều này làm cho người đọc biểu đồ có thể làm cho các thanh vừa vặn lại trước khi cảm thấy biểu đồ trở nên rối. Nếu bạn là người không quan tâm đến việc mở giá, biểu đồ dạng thanh là một phương pháp vô cùng lý tưởng cho mối quan hệ đóng từ cao đến thấp. Thêm vào đó, các biểu đồ dạng thanh mà bao gồm sự mở sẽ có khuynh hướng rối mắt nhanh hơn. Nếu bạn quan tâm đến giá mở, thỉ biểu đồ dạng chân đế đèn cầy có lẽ sẽ là sự lựa chọn tốt hơn.
Candlestick Chart (Biểu đồ dạng chân đế đèn cầy)
Ở Nhật Bản cách đây khoảng hơn 300 năm, biểu đồ dạng chân đế đèn cầy đã trở nên khá phổ biến. Trong những biểu đồ này tất cả sự mở, cao, thấp và đóng đều được thể hiện. Một chân đế đèn cầy thể hiện giá mở cũng như sự lên xuồng và đóng của giá trong ngày. Một biểu đồ hàng tuần dạng chân đế đèn cầy thể hiện sự lên xuống hàng tuần của giá được căn cứ vào sự mở cửa giao dịch của ngày thứ 2 và đóng cửa giao dịch của ngày thứ 6.
Nhiều nhà giao dịch cũng như các chủ đầu tư tin tưởng rằng các biểu đồ dạng chân đế đèn cầy rất dễ đọc, nhất là nó có thể thể hiện được các mối quan hệ giữa các quá trình đóng và mở giao dịch. Những biểu đồ dạng chân đế đèn cầy rỗng (trắng) được hình thành khi quá trình giao dịch đóng cửa cao hơn quá trình mở cửa và các chân đế dày đặc (đen) được hình thành khi quá trình đóng cửa giao dịch thấp hơn quá trình mở cửa. Sự phân chia màu trắng hay đen được căn cứ vào quá trình đóng và mở giao dịch và được gọi là thân đèn (body)….. Các đường viên bên trên và bên dưới được gọi là bóng mờ và thể hiện mức độ cao hay thấp.
(Maxi-Forex lược dịch)
(Maxi-Forex lược dịch)